Thị trường mỹ phẩm Việt Nam đang trên đà phát triển vượt bậc, đặc biệt là trong lĩnh vực xuất khẩu. Theo báo cáo từ cơ quan thống kê, trong

Sự phát triển của các thương hiệu mỹ phẩm Việt Nam

Trong những năm gần đây, các thương hiệu mỹ phẩm Việt Nam đã dần khẳng định vị thế của mình trên thị trường trong nước. Với chất lượng sản phẩm ngày càng được cải thiện và mức giá cạnh tranh, các thương hiệu mỹ phẩm Việt Nam thu hút sự quan tâm của người tiêu dùng và ngày càng chiếm lĩnh thị phần lớn hơn.

I. Thực trạng của thị trường mỹ phẩm tại Việt Nam ở giai đoạn hiện tại

Thị trường mỹ phẩm Việt Nam hiện là một trong những thị trường năng động nhất trong khu vực. Theo báo Tuổi trẻ, tỷ lệ phụ nữ Việt Nam thường xuyên sử dụng sản phẩm làm đẹp tăng từ 76% lên 86% trong giai đoạn 2018 – 2022.

Theo thông tin từ một số trang mạng, thị trường mỹ phẩm Việt Nam hiện có doanh thu khoảng 15.000 tỷ đồng một năm, tương đương với 700 triệu USD. Đây là một con số đáng chú ý, cho thấy tiềm năng phát triển của ngành mỹ phẩm trong nước.

Mức chi tiêu của người tiêu dùng Việt Nam cho mỹ phẩm vẫn chưa cao. Bình quân, mỗi người chỉ chi khoảng 4 USD một năm cho mỹ phẩm, trong khi ở Thái Lan, con số này là 20 USD [1]. Điều này cho thấy còn nhiều khả năng tăng cường chi tiêu và tiềm năng tăng trưởng cho thị trường Việt Nam.

Ngoài ra, Việt Nam đang ở giai đoạn hiện tại đang phát triển mạnh mẽ và có nhiều thay đổi tích cực. Dưới đây là một số thực trạng thực tế của thị trường này:

Thị trường mỹ phẩm tại Việt Nam đã và đang đạt được mức tăng trưởng đáng kể trong những năm gần đây. Sự phát triển kinh tế, tăng thu nhập của người dân cùng với nhận thức về làm đẹp ngày càng tăng đã thúc đẩy nhu cầu sử dụng mỹ phẩm.

Sự tăng trưởng của thương hiệu nội địa

Ngoài các thương hiệu mỹ phẩm nổi tiếng quốc tế, thị trường Việt Nam cũng chứng kiến sự phát triển mạnh mẽ của các thương hiệu mỹ phẩm nội địa. Các công ty mỹ phẩm Việt Nam đã nắm bắt được xu hướng và nhu cầu của người tiêu dùng trong nước, đồng thời có khả năng cạnh tranh với các thương hiệu ngoại nhập.

Sự quan tâm đến thành phần tự nhiên và bảo vệ môi trường

Người tiêu dùng ngày càng quan tâm đến thành phần tự nhiên và an toàn của các sản phẩm mỹ phẩm. Các công ty mỹ phẩm cũng đang chú tâm vào việc phát triển và giới thiệu sản phẩm mỹ phẩm có thành phần tự nhiên, hữu cơ và không gây hại cho môi trường. Điều này phản ánh xu hướng chung của người tiêu dùng hiện nay trong việc chọn lựa các sản phẩm mỹ phẩm.

Sự phát triển của thị trường mỹ phẩm tại Việt Nam đã tạo ra sự cạnh tranh sòng phẳng giữa các thương hiệu nội địa và quốc tế. Các thương hiệu mỹ phẩm nội địa cần đẩy mạnh nghiên cứu và đổi mới để cung cấp các sản phẩm chất lượng và đa dạng để cạnh tranh với các thương hiệu ngoại nhập.

Người tiêu dùng ở Việt Nam ngày càng đa dạng hóa nhu cầu về mỹ phẩm. Không chỉ quan tâm đến các sản phẩm trang điểm và chăm sóc da cơ bản, họ cũng quan tâm đến các sản phẩm chăm sóc tóc, chăm sóc cơ thể và làm đẹp tổng thể. Điều này tạo cơ hội cho các công ty mỹ phẩm mở rộng dòng sản phẩm và phục vụ một phạm vi khách hàng rộng hơn.

Tăng cường xu hướng mỹ phẩm hữu cơ và thiên nhiên

Trong năm 2023, xu hướng sử dụng mỹ phẩm hữu cơ và thiên nhiên dự kiến sẽ tiếp tục gia tăng. Người tiêu dùng ngày càng quan tâm đến thành phần tự nhiên và an toàn của sản phẩm mỹ phẩm. Điều này tạo ra cơ hội lớn cho các công ty sản xuất mỹ phẩm có cam kết về sản phẩm hữu cơ và thiên nhiên để phát triển và mở rộng thị trường của họ.

Sự phát triển của kênh phân phối

Việc phân phối mỹ phẩm đã có sự thay đổi rõ rệt. Ngoài các cửa hàng truyền thống, các siêu thị và chuỗi cửa hàng mỹ phẩm, người tiêu dùng cũng có thể mua sản phẩm thông qua các kênh trực tuyến như các trang web thương mại điện tử và ứng dụng di động. Điều này tạo thuận lợi cho người tiêu dùng và mở ra cơ hội mới cho các nhà kinh doanh.

Sự tăng cường quảng cáo và tiếp cận người tiêu dùng

Các công ty mỹ phẩm ngày càng đầu tư mạnh vào hoạt động quảng cáo và tiếp cận người tiêu dùng thông qua các chiến dịch truyền thông, marketing trực tuyến và sự kết hợp với các ngôi sao, influencers trên mạng xã hội. Điều này giúp tăng cường nhận thức và tạo sự tin tưởng cho người tiêu dùng.

Sự gia tăng của thị trường mỹ phẩm nam giới

Một xu hướng đáng chú ý trong năm 2023 là sự gia tăng của thị trường mỹ phẩm nam giới tại Việt Nam. Ngày càng nhiều nam giới nhận thức được về việc chăm sóc da và nhu cầu sử dụng các sản phẩm mỹ phẩm. Các công ty mỹ phẩm đã đáp ứng nhu cầu này bằng cách phát triển các dòng sản phẩm dành riêng cho nam giới, tạo ra cơ hội tăng trưởng và mở rộng thị trường mới.

Tóm lại, thị trường mỹ phẩm Việt Nam trong năm 2023 đang có sự tăng trưởng đáng kể và đầy triển vọng. Xu hướng như phát triển các thương hiệu mỹ phẩm Việt Nam, sự tăng cường xu hướng mỹ phẩm hữu cơ và thiên nhiên, ảnh hưởng của công nghệ và truyền thông, cùng với cơ hội mở rộng thị trường xuất khẩu và thị trường mỹ phẩm nam giới, đều tạo ra một tương lai sáng cho ngành mỹ phẩm Việt Nam.

Với sự phát triển nhanh chóng của ngành công nghiệp mỹ phẩm, các doanh nghiệp cần đảm bảo chất lượng sản phẩm, tuân thủ quy định về an toàn và chất lượng, đồng thời tạo ra các chiến lược tiếp thị và quảng cáo hiệu quả để tăng cường nhận diện thương hiệu và thu hút người tiêu dùng.

Trên hết, thị trường mỹ phẩm Việt Nam năm 2023 là một lĩnh vực hứa hẹn với tiềm năng phát triển đáng kể. Các doanh nghiệp mỹ phẩm nên nắm bắt các xu hướng mới, tận dụng công nghệ và truyền thông, và tạo ra các sản phẩm đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng. Với sự chuyên nghiệp và tầm nhìn xa, ngành mỹ phẩm Việt Nam có thể tiếp tục phát triển và khẳng định vị thế của mình trên thị trường quốc tế.

TÌM HIỂU THÊM: THỊ TRƯỜNG MỸ PHẨM VIỆT NAM 2022

Việc làm là nền tảng của sự phát triển kinh tế xã hội và có ý nghĩa quan trọng đối với bình đẳng giới. Việc làm có thể cải thiện sinh kế, giảm nghèo, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và gắn kết mọi người từ các thành phần xã hội và dân tộc khác nhau. Việc làm cũng là phương tiện thúc đẩy bình đẳng giới và từ đó, chuyển hoá thành các tiến bộ kinh tế và xã hội. Việc làm giúp phụ nữ có khả năng tự lựa chọn, hỗ trợ gia đình và tham gia tích cực hơn vào cộng đồng của mình.

Trong những năm qua, Việt Nam đã đạt được nhiều tiến bộ đáng kể theo các thước đo quan trọng về bình đẳng giới, đặc biệt trong việc cải thiện việc làm cho phụ nữ. Mặc dù vẫn còn một số khoảng cách giới nhất định, Việt Nam được xem là quốc gia có mức độ bình đẳng giới tương đối cao, bao gồm cả khía cạnh tăng cơ hội kinh tế cho phụ nữ.

Tuy nhiên, những xu hướng và thay đổi đang gia tăng trên toàn cầu đang tạo ra những thách thức và cơ hội mới xoay quanh việc làm cho phụ nữ Việt Nam. Những xu hướng đó là kết quả của một loạt các thay đổi về kinh tế xã hội và nhân khẩu học đang định hình tương lai của Việt Nam, chẳng hạn như cạnh tranh kinh tế trong khu vực và toàn cầu, tốc độ tăng năng suất lao động chậm lại, tình trạng già hóa dân số và đô thị hóa. Một số thay đổi có thể mang lại lợi ích cho phụ nữ, tuy nhiên nếu thiếu sự can thiệp và điều tiết, chúng có thể đảo ngược những thành tựu đã đạt được trước đây và gia tăng các chênh lệch trên cơ sở giới.

So với nam giới, phụ nữ Việt Nam đã đạt được nhiều tiến bội theo một số thước đo thị trường lao động. Tỷ lệ tham gia lao động của phụ nữ Việt Nam cao, với 76% phụ nữ trưởng thành (từ 15 đến 64 tuổi) đang làm việc. Tỷ lệ này chỉ là 49,6% trên thế giới và 61,1% tại Đông Á và Thái Bình Dương. Điều này cho thấy rằng tỷ lệ nữ giới tham gia vào lực lượng lao động của Việt Nam cao hơn nhiều so với mức kỳ vọng của quốc gia có mức phát triển như tương đương (1).

Theo thống kê, phụ nữ Việt Nam làm việc nhiều hơn theo hình thức có hợp đồng trả lương, trong khi nam giới chiếm đa số trong các công việc có lương nhưng không ký hợp đồng. Khi so sánh giữa nam giới và phụ nữ với các đặc điểm tương tự như độ tuổi, trình độ học vấn và khu vực sinh sống, khả năng phụ nữ có việc làm được trả lương thấp hơn 8,8% so với nam giới. Tuy nhiên, khả năng phụ nữ có việc làm dưới dạng hợp đồng trả lương lại cao hơn 2% so với nam giới. Điều này có nghĩa là lao động nữ được tiếp cận phúc lợi xã hội nhiều hơn thông qua công việc và ít nhất họ được đảm bảo mức lương tối thiểu (2).

Tuy nhiên, số phụ nữ tự làm chủ hoặc không nhận được bất kỳ thu nhập nào cho lao động của mình (ví dụ như các công việc kinh doanh hộ gia đình không được trả lương) cao hơn nhiều hơn so với nam giới. Vì vậy, trong khi phụ nữ có tỷ lệ tham gia lực lượng lao động cao ở Việt Nam, loại công việc họ đang làm được trả công ít hơn so với nam giới. Với cùng một ngành nghề, cùng độ tuổi, cùng đặc điểm nhân khẩu học và sống trong cùng một khu vực như nam giới, phụ nữ có thu nhập thấp hơn nam giới khoảng 15,4% vào năm 2011. Con số này đã giảm xuống 12,5% vào năm 2014, một dấu hiệu tích cực cho thấy khoảng cách giới đang được thu hẹp (2). Tuy nhiên, khoảng cách thu nhập giữa nam và nữ vẫn tồn tại, chủ yếu trong một số ngành nghề nhất định. Sự phát triển của ngành dệt may theo định hướng xuất khẩu đã mang lại hơn một triệu việc làm có lương, trong đó lao động nữ chiếm đa số. Dịch vụ và bán hàng cũng là nhóm công việc chiếm ưu thế bởi nữ giới, mặc dù đây là ngành nằm trong nhóm trả lương thấp nhất. Nhưng thậm chí trong nhóm công việc này, nam giới vẫn có thu nhập cao hơn phụ nữ (3).

Khi xem xét trình độ kỹ năng kết hợp với công việc, phụ nữ có xu hướng co cụm trong các ngành nghề được trả lương thấp và trong các hình thức công việc truyền thống. Gần 52% lao động nông nghiệp là nữ, so với 48% lao động nông nghiệp là nam. Khoảng 55% chủ doanh nghiệp hộ gia đình là nữ, so với 45% là nam (3). Lao động nông nghiệp gia đình và doanh nghiệp hộ gia đình là loại hình công việc không được trả lương trực tiếp, thay vào đó các thành viên trong nông hộ và doanh nghiệp hộ gia đình lấy lợi nhuận làm thù lao cho chính mình. Loại công việc này có năng suất thấp và thu nhập trung bình thấp hơn so với mức lương tối thiểu. Sự phân chia theo giới cũng tồn tại ở những nấc thang nghề nghiệp cao nhất. Chỉ có 25% cán bộ quản lý là phụ nữ. Theo thống kê Giới năm 2015, chỉ 22% doanh nghiệp có một lãnh đạo cao nhất là nữ (4).

Sự khác biệt trong trình độ học vấn có thể giải thích một cách hợp lý cho sự chênh lệch về thu nhập. Tuy nhiên, ở Việt Nam, nữ giới có thu nhập thấp hơn nam giới mặc dù họ có trình độ học vấn cao hơn, điều này có thể bắt nguồn từ việc phụ nữ có xu hướng làm việc trong các ngành nghề được trả lương thấp hơn nam giới. Vậy câu hỏi đặt ra là: Tại sao phụ nữ ở Việt Nam lại chọn làm việc trong những ngành nghề được trả lương thấp hơn nam giới?

Sự phân chia nghề nghiệp có thể liên quan đến các sự khác biệt giới quan trọng. Một nghiên cứu vào năm 2018 cho thấy, ở tuổi 12, học sinh nữ mong muốn làm trong những nghề có thu nhập cao hơn học sinh nam (5). Tuy nhiên, tại bậc giáo dục sau trung học, nữ thanh niên bắt đầu tập trung vào các ngành quản lý, giáo dục và sức khỏe, trong khi nam thanh niên chọn Công nghệ Thông tin và các ngành khoa học.

Bên cạnh đó, chuẩn mực xã hội cho rằng trách nhiệm chăm sóc gia đình thuộc về phụ nữ. Trên thực tế, phụ nữ phải dành nhiều giờ chăm sóc gia đình hơn nam giới. Những trách nhiệm gia đình này cần một khoảng thời gian tương đương với công việc toàn thời gian, làm hạn chế cơ hội tiếp cận thị trường lao động của phụ nữ. Rào cản chăm sóc gia đình cản trở phụ nữ có công việc tốt hơn có thể tăng thêm, khi tình trạng già hóa dân số ngày càng đòi hỏi phụ nữ phải dành thời gian chăm sóc người cao tuổi. Những việc làm cần nhiều giờ lao động, địa điểm làm việc xa (mất thời gian di chuyển dài) hoặc có khung thời gian làm việc không theo giờ hành chính có thể không tương thích với trách nhiệm gia đình, do đó hạn chế các lựa chọn việc làm của phụ nữ. Điều này có thể khiến phụ nữ lựa chọn những công việc được trả lương thấp để đổi lấy các lợi ích như thời gian nghỉ phép và bảo hiểm xã hội (6). Ngay cả khi là người tự doanh hoặc là chủ doanh nghiệp, để có sự linh hoạt và cân bằng công việc ở nhà tốt hơn, phụ nữ thường bắt buộc phải lựa chọn những lĩnh vực có mức thù lao thấp hơn.

Ngoài ra, nhận thức về vai trò truyền thống của phụ nữ trong xã hội cũng là một rào cản khác. Kết quả Khảo sát Giá trị Thế giới 2001 cho thấy, 86% người trả lời đồng ý rằng làm công việc nội trợ cũng mang lại sự hài lòng về vai trò, bổn phận như đi làm có lương. Tới 86% số người trả lời này cũng cho rằng phụ nữ cần phải có con mới được xem là làm tròn thiên chức (7).

Tại Việt Nam, điều 40 của Luật về Bình đẳng Giới quy định không được phân biệt đối xử theo giới khi tuyển dụng nhưng trên thực tế, tình trạng này vẫn còn tiếp diễn (8). Ví dụ, đánh giá các chương trình quảng cáo tuyển dụng quản lý và giám sát cấp cao cho thấy, 65% nội dung quảng cáo nêu rõ họ cần nam (yếu tố giới) cho các vị trí này (9).

Cải cách là thực sự cần thiết để thiết lập nền tảng cho các công việc có năng suất cao hơn, thu nhập tốt hơn và chất lượng hơn cho phụ nữ. Với tình hình cụ thể của Việt Nam, các giải pháp dưới đây được khuyến nghị nhằm hỗ trợ mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới, đặc biệt là trong lĩnh vực việc làm:

Cho đến hôm nay, vẫn chưa có một quốc gia nào trên thế giới có thể tuyên bố đã đạt được bình đẳng giới tại nơi làm việc. Những thành kiến vô thức, những khuôn mẫu và định kiến phổ biến hơn là chúng ta tưởng, đặc biệt trong các lĩnh vực thống trị bởi nam giới như là tài chính, công nghệ thông tin, thậm chí, kể cả trong các lĩnh vực do nữ giới thống trị như điều dưỡng và giảng dạy. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng, việc ẩn danh trong quy trình tuyển dụng giúp giảm đáng kể những thành kiến và định kiến trên. JANZZ.technology luôn ủng hộ hết mình cho một chính sách tuyển dụng đa dạng và hòa nhập. Minh chứng cho điều này chính là số lượng nữ nhân viên IT tại JANZZ chiếm tới 60%. Chúng tôi đã chứng minh rằng các chính sách không phân biệt đối xử trợ giúp quá trình tuyển dụng vô cùng hiệu quả, khiến nhân viên hòa nhập tốt hơn và đạt được nhiều thành công hơn. Để tuyển được một đội ngũ nhân lực có chất lượng cao, ngay từ bước đầu tiên của quy trình đăng ký, ứng viên phải được đảm bảo ẩn danh bằng cách che giấu các dữ liệu cá nhân không liên quan đến công việc. Những thông tin khác liên quan tới công việc và mang tính thiết thực cho quá trình đối sánh như nghề nghiệp, kỹ năng, học vấn, kinh nghiệm, mức lương v.v. sẽ được hiển thị ngay từ đầu. Chúng ta đã tiến một bước rất dài trong quá trình đấu tranh bình đẳng giới, tuy nhiên, mục tiêu hãy còn ở rất xa.  Nếu bạn, cũng như chúng tôi, nghĩ rằng vẫn còn rất nhiều việc cần phải làm để tiến tới gần mục tiêu hơn , hãy liên hệ với chúng tôi tại địa chỉ [email protected] hoặc truy cập website www.janzz.technology. JANZZ.technology sẽ cung cấp các công cụ phù hợp để giúp bạn đấu tranh giành cơ hội bình đẳng cho tất cả mọi người. Cùng nhau, chúng ta có thể tạo ra sự khác biệt!

(1) Demombynes and Testaverde. 2018. Employment Structure and Returns to Skill in Vietnam: Estimates Using the Labor Force Survey. Washington, DC: World Bank. (2) Cunningham, Wendy; Alidadi, Farima; Buchhave, Helle. 2018. Vietnam’s Future Jobs : The Gender Dimension. World Bank, Hanoi. (3) World Bank Group. 2019. How to Design the Vietnam Labor Code to Improve Gender Equality. World Bank, Hanoi. (4) Data is from the Gender Statistics Database, World Bank, Washington, DC (May 2018) https://data.worldbank.org/data-catalog/gender-statistics. (5) Chowdhury, Iffat; Johnson, Hillary C.; Mannava, Aneesh; Perova, Elizaveta. 2018. Gender Gap in Earnings in Vietnam : Why Do Vietnamese Women Work in Lower Paid Occupations?. Policy Research Working Paper;No. 8433. World Bank, Washington, DC. (6) Chowdhury, Iffat, Elizaveta Perova, Hillary Johnson, and Aneesh Mannava. 2018. Gender Streaming in Vietnam. Washington, DC: International Bank for Reconstruction and Development/World Bank. (7) Dalton, Russell J., and Nhu-Ngoc T. Ong. The Vietnamese Public in Transition: The 2001 World Values Survey. Irvine, California: Center for the Study of Democracy, University of California. (8) Based on data from the Women, Business, and the Law database, World Bank, Washington, DC ( May 2018), http://wbl.worldbank.org) (9) ILO (International Labor Organization) 2016. Asean in Transformation: Perspectives of Enterprises and Students on Future Work. Bureau for Employers’ Activities working paper 11, ILO, Geneva.